Phẫu thuật tạo hình là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật tạo hình
Phẫu thuật tạo hình, hay thẩm mỹ, là lĩnh vực y học chuyên về cải thiện hoặc tái tạo cơ thể. Ban đầu để điều trị dị tật hoặc tổn thương, nó nay còn bao gồm nâng cao ngoại hình và tự tin. Ngành này có lịch sử từ thời cổ đại, phát triển mạnh trong thế kỷ 20 nhờ tiến bộ y học và kỹ thuật. Gồm phẫu thuật tái tạo phục hồi chức năng do dị tật và thẩm mỹ cải thiện ngoại hình. Quy trình có thể từ xâm lấn tối thiểu như tiêm botox đến phẫu thuật phức tạp. Dù có rủi ro, kỹ thuật thực hiện đúng cách có thể mang lại nhiều lợi ích.
Giới thiệu về Phẫu Thuật Tạo Hình
Phẫu thuật tạo hình, còn được gọi là phẫu thuật thẩm mỹ, là một lĩnh vực y học chuyên sâu nhằm cải thiện hoặc tái tạo các bộ phận cơ thể con người. Mặc dù ban đầu được phát triển chủ yếu để điều trị các dị tật bẩm sinh hoặc tổn thương do tai nạn, phẫu thuật thẩm mỹ ngày nay cũng bao gồm các quy trình thẩm mỹ nhằm nâng cao ngoại hình và tăng cường sự tự tin của cá nhân.
Lịch Sử Phát Triển
Phẫu thuật tạo hình có nguồn gốc từ thời cổ đại, với các thủ tục được mô tả trong các tài liệu của Ai Cập cổ đại và Ấn Độ. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 20, với sự phát triển của kiến thức y học và công nghệ, phẫu thuật tạo hình mới thực sự phát triển mạnh mẽ và trở nên phổ biến. Hai cuộc Thế chiến đã thúc đẩy những tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật để điều trị thương tích chiến tranh, từ đó mở đường cho sự phát triển của ngành này.
Các Lĩnh Vực Chính của Phẫu Thuật Tạo Hình
Phẫu thuật tạo hình được chia thành hai lĩnh vực chính:
- Phẫu thuật tái tạo: Nhằm phục hồi chức năng và hình dáng cho các bộ phận cơ thể bị khiếm khuyết do dị tật bẩm sinh, tai nạn hoặc bệnh lý. Ví dụ như phẫu thuật tách giảm sứt môi, tái tạo ngực sau phẫu thuật cắt bỏ, và điều trị bỏng nặng.
- Phẫu thuật thẩm mỹ: Tập trung vào cải thiện ngoại hình, thường không cần thiết về mặt y học. Các quy trình phổ biến bao gồm nâng mũi, căng da mặt, và hút mỡ.
Kỹ Thuật và Quy Trình Phổ Biến
Phẫu thuật tạo hình sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, từ các phương pháp xâm lấn tối thiểu như tiêm chất làm đầy và botox, đến các phương pháp xâm lấn lớn hơn như phẫu thuật nâng ngực và tạo hình bụng. Mỗi quy trình đều yêu cầu đánh giá kỹ lưỡng của bác sĩ để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Những Rủi Ro và Lợi Ích
Giống như bất kỳ can thiệp y tế nào, phẫu thuật tạo hình đi kèm với các rủi ro tiềm ẩn như nhiễm trùng, mất máu, và phản ứng bất lợi với thuốc gây mê. Tuy nhiên, nếu được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm trong điều kiện thích hợp, phẫu thuật tạo hình có thể mang lại những lợi ích nhất định, như cải thiện chức năng và tăng cường sự tự tin.
Kết Luận
Phẫu thuật tạo hình là một lĩnh vực hấp dẫn và không ngừng phát triển trong y học hiện đại, mang lại cơ hội phục hồi và cải thiện đáng kể cho những người cần đến. Việc lựa chọn phẫu thuật nên được cân nhắc kỹ lưỡng với sự tư vấn từ các chuyên gia y tế để đảm bảo an toàn và đạt được kết quả mong muốn.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật tạo hình":
Để thiết lập các cột mốc nhằm đạt được năng lực phẫu thuật bằng cách sử dụng công cụ đánh giá khách quan được thiết kế để đo lường sự phát triển kỹ năng mổ tế bào chũm trong phòng mổ (OR).
Nghiên cứu xác thực dọc theo thời gian, có tính tiên lượng.
Năm mươi sáu đánh giá đã được thực hiện trong phòng mổ trên chín bác sĩ thực tập chuyên khoa tai mũi họng từ năm PGY (sau đại học) 2 đến PGY 5 trong vòng 3 năm. Hiệu suất kỹ thuật được đo lường theo thời gian sử dụng danh sách kiểm tra dựa trên nhiệm vụ được phát triển để đánh giá kỹ năng mổ tế bào chũm.
Ba bộ cột mốc kỹ thuật đại diện cho sự đạt được năng lực cho các bước thủ tục ngày càng phức tạp hơn: bộ đầu tiên đạt được sau trung bình 6 ± 4.3 ca, bộ thứ hai sau 9 ± 6.7 ca (phạm vi trung bình = 8–10 ca), và bộ thứ ba sau 13 ± 6.4 ca (phạm vi trung bình = 12–14 ca).
Việc tiếp thu các kỹ năng mổ tế bào chũm có thể được tích hợp vào giảng dạy phẫu thuật trong phòng mổ, và cách tiếp cận này mang lại thông tin có thể giúp phát triển kỹ năng cá nhân và cải thiện chương trình. Việc xác định các cột mốc đặc biệt có thể giúp thiết lập các tiêu chuẩn đào tạo để đạt được năng lực và trong việc nhận diện các học viên cần cải thiện.
Trong thực hành hàng ngày, các mô hình hàm 3 chiều cụ thể cho bệnh nhân (mô hình 3D) là công cụ hữu ích trong việc lập kế hoạch và mô phỏng phẫu thuật, đào tạo cư trú, giáo dục bệnh nhân và giao tiếp giữa các bác sĩ phụ trách. Sự cải tiến liên tục của phần cứng và phần mềm đã làm cho việc thu được mô hình 3D trở nên dễ dàng. Gần đây, trong lĩnh vực phẫu thuật miệng và hàm mặt, có nhiều báo cáo về lợi ích của mô hình 3D. Chúng tôi đã giới thiệu một máy in 3D để bàn tại khoa của mình, và sau một thời gian dài vật lộn, chúng tôi đã thành công trong việc xây dựng một môi trường để sản xuất mô hình 3D “tại chỗ” mà trước đây đã được gia công bên ngoài. Thông qua nhiều nỗ lực, giờ đây chúng tôi có thể cung cấp các mô hình 3D với chi phí thấp một cách ổn định, từ đó đảm bảo sự an toàn và chính xác trong các ca phẫu thuật. Chúng tôi báo cáo các trường hợp mà mô hình 3D chi phí thấp đã được sử dụng cho mô phỏng phẫu thuật chỉnh nha và thảo luận về các kết quả phẫu thuật.
Chúng tôi đã giải thích các xem xét cụ thể khi quét CT cho in 3D, các lỗi in 3D và cách xử lý chúng. Chúng tôi cũng đã sử dụng các mô hình 3D được chế tạo trong hệ thống của chúng tôi để xác định sự đóng góp vào phẫu thuật. Dựa trên kết quả phẫu thuật của hai người thực hiện, chúng tôi đã so sánh thời gian phẫu thuật và lượng máu mất ở 25 bệnh nhân đã phẫu thuật sử dụng mô hình 3D trong mô phỏng trước phẫu thuật và 20 bệnh nhân không sử dụng mô hình 3D. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong thời gian phẫu thuật giữa hai nhóm.
Hội chứng đồng bào trọng lực nửa trên bẩm sinh là bệnh lý bẩm sinh phổ biến nhất ở khớp khuỷu và cẳng tay.
Đây là một nghiên cứu tiến cứu trên 12 trẻ em liên tiếp (14 cẳng tay) được đưa đến Viện Quốc gia về Hệ thống Thần kinh Vận động tại Ai Cập từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013 với hội chứng đồng bào trọng lực nửa trên bẩm sinh nghiêm trọng, có độ biến dạng nghiêng trung bình là 70,7° (khoảng 60°–85°), và được phẫu thuật điều chỉnh bằng phương pháp tạo hình xoay hai mức độ ít xâm lấn trong một lần và cố định bằng dây K nội tủy qua da cho cả xương quay và xương trụ. Có 10 cẳng tay thuộc loại III, và 4 thuộc loại II theo phân loại của Cleary và Omer. Tuổi trung bình tại thời điểm phẫu thuật là 5 tuổi và 2 tháng (khoảng từ 4 tuổi và 10 tháng đến 6 tuổi và 5 tháng). Họ được đánh giá về kết quả chức năng sau khi phẫu thuật điều chỉnh xoay tại khoảng thời gian trung bình là 30,4 tháng (khoảng 24–36 tháng) qua kiểm tra lâm sàng và chụp X-quang.
Tất cả các trẻ em đều có độ phục hồi biến dạng nghiêng trung bình là 59,8° (khoảng 30°–90°) đạt được ở vị trí cuối cùng là 20°–30° nghiêng sang bên trong ở chi bên thuận và 20° nghiêng ra ngoài ở chi bên không thuận sau phẫu thuật. Tất cả trẻ đều thể hiện sự cải thiện trong các hoạt động chức năng, không có mất chỉnh sửa hoặc không liên kết ở bất kỳ trẻ nào, và không có rối loạn tuần hoàn, tổn thương thần kinh, hoặc sẹo phì đại nào.
Phẫu thuật tạo hình xoay hai mức độ ít xâm lấn một lần cho xương trụ và xương quay dưới với sự cố định bằng dây K nội tủy qua da là một thủ thuật an toàn, kỹ thuật đơn giản và hiệu quả trong việc điều chỉnh biến dạng nghiêng.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân chấn thương sọ não (TBI) là một thách thức. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác minh kết quả thần kinh của bệnh nhân TBI nặng được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình xương sọ giảm áp (sớm < 24 giờ, muộn > 24 giờ), so với điều trị bảo tồn, trong bệnh viện và sau 6 tháng.
Tổng cộng có 186 bệnh nhân TBI được nhập viện vào Khoa hồi sức cấp cứu của một trung tâm tuyến ba (Bệnh viện Giảng dạy Careggi, Florence, Ý) từ năm 2005 đến năm 2009 đã được nghiên cứu hồi cứu. Bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình xương sọ giảm áp được chia thành 2 nhóm: “nhóm phẫu thuật tạo hình sớm” (các bệnh nhân trải qua phẫu thuật trong vòng 24 giờ đầu tiên); và “nhóm phẫu thuật tạo hình muộn” (các bệnh nhân trải qua phẫu thuật sau 24 giờ đầu tiên). Như một nhóm đối chứng, các bệnh nhân mà tăng áp lực nội sọ đã được kiểm soát thành công bằng phương pháp điều trị y tế được đưa vào “nhóm không phẫu thuật tạo hình”.
Các nhóm bao gồm 41 bệnh nhân cần phẫu thuật tạo hình xương sọ giảm áp sớm, 21 bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình muộn (trung bình 7.7 ngày sau chấn thương), và 124 bệnh nhân mà tình trạng tăng áp lực nội sọ đã được kiểm soát thành công thông qua điều trị bảo tồn. Các nhóm có tuổi và điểm số chấn thương/bệnh lý nặng tương đương, ngoại trừ điểm Marshall cao hơn đáng kể ở các bệnh nhân phẫu thuật tạo hình sớm. Điểm Glasgow Outcome Scale tương đương giữa các nhóm lúc ở ICU, tại thời điểm xuất viện và sau 6 tháng.
Trong mẫu của chúng tôi, phẫu thuật tạo hình muộn ở những bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ kháng trị sản xuất kết quả thần kinh sau 6 tháng làm cho có thể so sánh với các bệnh nhân phản ứng với điều trị tiêu chuẩn. Dữ liệu này cần được tái tạo và xác nhận trước khi xem xét như một mục tiêu điều trị ở những trường hợp tăng áp lực nội sọ kháng trị.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10